Ngày 21 Tháng 12
Thánh Phêrô TRƯƠNG VĂN THI
Linh mục
(1763 - 1839)

Lư H́nh Cơng Tử Tội

Trên đường ra pháp trường, từ nhà ngục Hà Nội đến Ô Cầu Giấy, người tử tội ốm yếu bệnh tật với tuổi già bảy mươi sáu, bước đi chẳng nổi nữa. Ông bước đi lảo đảo rồi ngă qụy xuống đường. Trước t́nh cảnh tang thương đó, một người lính đoàn hành quyết khom lưng cơng tử tội đến nơi xử, và được tử tội âu yếm tặng đôi giày của ḿnh làm kỷ niệm. Thế đó, lính tráng ngỡ ngàng, dân chúng nghẹn ngào, các tín hữu xúc động: Người hành quyết cơng tử tội đến pháp trường. Tử tội đó là Linh mục Phêrô Trương văn Thi.

Người Mục Tử Hiền Ḥa Nghèo Khổ

Phêrô Trương văn Thi mở mắt chào đời năm 1763 tại làng Kẻ Sở, huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam. Năm 11 tuổi, cậu được nhận vào nhà Đức Chúa Trời để tu học, tập tành các nhân đức, rồi trở thành thầy giảng. Trong chức vụ này, thầy Thi luôn chứng tỏ nhiệt tâm tông đồ, đời sống đạo đức, và khả năng dồi dào, nên được gọi vào đại chủng viện. Đến ngày 22.3.1806, thầy lănh chức linh mục khi đă 43 tuổi.

Trong hai mươi bảy năm liền, cha Thi coi sóc xứ Sông Chảy thuộc phủ Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Năm 1833 ngài được bổ nhiệm chính xứ Kẻ Sông, và ở đó cho đến khi tử đạo năm 1839. Theo lời chứng của các tín hữu tại đây, cha Thi là một linh mục: “Rất nhân đức, mỗi ngày đọc kinh nguyện lâu giờ ba bốn lần, cử hành thánh lễ trang nghiêm, ăn uống đạm bạc, thường ăn chay các ngày thứ Sáu, mặc dù sức khoẻ của ngài yếu kém với chứng đau bụng thường xuyên”.

Thừa sai Jeantet Khiêm sau làm giám mục Tây Đàng Ngoài đă viết về cha Thi. “Tôi quen biết ngài từ năm 1835, tôi cảm phục ngài về ḷng đạo đức thâm sâu, có tính hiền ḥa, khôn ngoan và trung thành giữ lề luật”. Cha sống khó nghèo, ngoài áo chùng thâm, cha chỉ mặc đồ nâu như một nông dân nghèo nàn. Ngoài giáo xứ chính, cha c̣n phụ trách thêm nhiều họ lẻ. Một lần di chuyển trên sông, thuyền của cha bị đắm, người tháp tùng cha chết đuối, c̣n cha sống sót được nhờ bám vào ḥm đựng đồ lễ. Suốt mấy chục năm phục vụ giáo xứ, không hề thấy một ai kêu ca chê trách cha lời nào.

Do chiếu chỉ cấm đạo toàn quốc của vua Minh Mạng, cha Thi luôn hoạt động âm thầm. Được một thời gian khá lâu, bất ngờ vào ngày 10.10.1839, khi cha Dũng Lạc ở làng kế cận t́m đến xưng tội, viên lư trưởng tên Pháp hay tin, đưa người đến bắt cả hai linh mục. Lư Pháp mặc cả giá tiền chuộc với các tín hữu, và ngả giá là hai trăm quan. Khi các tín hữu mới gom được một nửa số tiền, ông chỉ tha một ḿnh cha Dũng Lạc. Ai ngờ trên đường về, cha Dũng Lạc bị một tốp lính khác bắt được. Thế là lư Pháp không cho chuộc cha Thi nữa, và cho áp giải ngài về B́nh Lục. Giữa đường, ông gặp đám lính đang áp giải cha Dũng Lạc, liền nộp cha Thi cho quan huyện. Từ đó, hai vị cùng chung một số phận tù ngục và cùng chung hưởng phúc vinh quang.

Ông “Quan Bên Đạo” Dưới Mắt Ông Quan Bên Đời

Quan huyện B́nh Lục tỏ ra rất vị nể hai linh mục. Riêng với cha Thi, quan ái ngại cho tuổi già sức yếu, nên cư xử càng lịch thiệp hơn. Ông nói: “Tôi làm quan bên đời, c̣n ông làm quan bên đạo”. Dĩ nhiên quan đă hiểu sai về chức năng phục vụ của người linh mục, nhưng dầu sao đó cũng là bằng chứng của sự kính nể. Biết không thể lay chuyển ḷng tin của hai vị, quan không tra tấn ǵ cả, chỉ giữ lại ba ngày rồi cho giải về Hà Nội. Như Philatô rửa tay trong vụ án Đức Giêsu, viên quan huyện sau đó cũng mở lễ cúng vái các thần, thanh minh với mọi người, và xin trời đất chứng giám cho ḿnh vô can trong cái chết của những kẻ vô tội.

Khi hai cha được đưa lên Hà Nội bằng thuyền theo đường sông Hồng, các tín hữu kéo nhau đi theo rất đông, kẻ đi thuyền, người đi bộ trên bờ đê.

Ngày 16.10, thuyền áp giải hai cha đă cập bến. Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường và bắt đạp lên thánh giá. Cha Thi quỳ xuống, nghiêm trang hôn kính dấu chỉ Đấng Cứu Độ. Sau nhiều lần hạch hỏi, quan thấy không có cách nào khuất phục được hai vị linh mục, liền làm án tâu lên vua xin trảm quyết.

Trong khi chờ đợi vua phê án, cha Thi biết trước số phận của ḿnh, và chuẫn bị đón nhận hồng phúc tử đạo của ḿnh. Cha gia tăng việc cầu nguyện và hăm ḿnh. Cha ăn chay các ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy. Bệnh tật, gông cùm (dù cha chỉ phải mang gông nhẹ) và chay tịnh làm sức khỏe của cha ngày càng sa sút. Thừa sai Jeantet Khiêm viết thơ vào đề nghị cha giảm bớt khổ chế đi, nhưng cha vẫn không thay đổi.

T́nh Yêu Không Biên Giới

Ngày 21.12.1839, lần thứ hai khi cha Trân đưa Ḿnh Thánh vào, cha Thi đă liệt giường, phải nhờ cha Dũng Lạc ra nhận và trao Thánh Thể. Không ngờ chính hôm đó lại là ngày cuối cùng cuộc đời dương thế của các ngài, bản án vua châu phê đă vô tới. Quân lính dẫn hai cha ra pháp trường. Trên đường, cha Thi không c̣n sức bước đi nữa, nên một người lính đă đóng vai “Simon”, cơng cha đến nơi thụ án.

Quảng đường cuối cùng của cha Thi: Đôi giày, kỷ vật tặng cho người lính, h́nh ảnh một “Simon Xirênê” Việt Nam cơng tử tội ra pháp trường... Làm sao diễn tả hết ư nghĩa của những điều đó. Phải chăng h́nh ảnh đó có thể khái quát được bao tang thương của Giáo hội Việt Nam thời khai nguyên? Phải chăng điều đó đủ xóa đi những đố kỵ c̣n sót lại cho đến ngày hôm nay? Và phải chăng h́nh ảnh đó cho phép ước mơ một xă hội tương lai sáng lạn hơn, khi mọi người dám vượt qua mọi trở ngại để đối xử với nhau bằng trái tim yêu thương?

Giáo hữu thấm máu vị tử đạo, thâu lượm các di vật, rồi đưa thi hài các ngài về Kẻ Sở dâng lễ và an táng cách trọng thể.

Thừa sai Jeantet Khiêm nhận định về cuộc tử đạo của cha Phêrô Thi như sau:

“Ân sủng đă toàn thắng sự yếu đuối của con người. Nhờ ân sủng, con người bẩm sinh vốn hiền lành nay đă có được sức mạnh trước đây chưa từng có”.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn cha Phêrô Trương văn Thi lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900.


Ngày 21 Tháng 12
Thánh Anrê TRẦN AN DŨNG LẠC
Linh mục
(1795 - 1839)

 

Theo Gương Thánh Phêrô

Quo vadis, Domine? — Lạy Thầy, Thầy đi đâu?

Trên đường chạy trốn cơn bách hại khủng khiếp của bạo chúa Nêrô đang giáng xuống kinh thành Rôma, vị tông đồ trưởng Phêrô đă bàng hoàng thốt lên câu hỏi trên khi bất ngờ gặp Chúa Giêsu vác thập giá đi ngược chiều với ḿnh.

Sau đó là khoảng khắc im lặng... Sự im lặng tưởng chừng như đến muôn đời sẽ không bao giờ có giây phút nào im lặng như thế! Phêrô như đọc thấy câu trả lời trong ánh mắt của Đức Kitô, có một chút giống ánh mắt Ngài đă nh́n ḿnh sau ba lần chối Chúa. Và trong bầu khí thinh lặng đó, chợt vọng tới tai ông giọng nói buồn bă nhưng ngọt nào:

“Khi anh rời bỏ dân Ta. Ta phải đến Rôma để chịu đóng đinh một lần nữa”.

Phêrô lặng người đi và chợt hiểu...

Vị sứ đồ đă ra đi để xa lánh cơn điên cuồng của một bạo chúa, v́ những lời nài nỉ chí t́nh chí thiết của đoàn tín hữu. Họ coi ngài là sức mạnh, là hơi thở, là chỗ dựa. Cần phải sống để tiếp tục mưu ích cho đoàn chiên. Giờ đây, Phêrô được ôn lại bài học vĩ đại nhất của vị Tôn Sư Giêsu, người thợ mộc làng Na-gia-rét đă chết gục vào tuổi ba mươi ba trên thập tự để cứu chuộc nhân loại.

Thế là trong cái khoảnh khắc kỳ diệu đó, Thánh Phêrô chợt nhớ ra. Để rồi thay v́ những bước chân rời ră, do dự chạy trốn, th́ giờ đây ngài bước một cách mạnh mẽ, dứt khoát quay lại... để có thể trở nên giống Thầy ḿnh. Từ đó, trên đá tảng Phêrô, Rôma trở nên kinh thành muôn thuở. Đâu có ai thời đó đă nghĩ ra như thế. Vâng, đâu có ai thời đó đă hiểu được điều ấy.

Sau lần bị bắt thứ ba, cha Anrê Dũng Lạc như cảm nhận được bài học của Thánh Phêrô xưa. Ư nghĩ con người không hẳn đă phù hợp với ư Chúa. Ngài xin tín hữu đừng chuộc nữa, ngài đă chấp nhận hy sinh chính bản thân để trở nên một ngọn đèn, góp lửa với nhiều ngọn đèn khác làm chứng cho Chúa trên quê hương yêu dấu nầy.

Ba Lần Bị Bắt

Sinh ra trong một gia đ́nh ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần an Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Tại đây v́ nhà nghèo, cậu được gán cho một thầy giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên thánh là Anrê. Ít lâu sau cậu Dũng xin vào chủng viện Vĩnh Trị, ở với cha chính Lan. Ngay từ đó, cậu Dũng đă tỏ ra tư chất thông minh đặc biệt với trí nhớ lạ lùng, lại siêng năng cần mẫn, có khiếu về thơ phú và giao tiếp với mọi người cách lịch thiệp ḥa nhă. Có người nói rằng cậu chỉ đọc qua một đoạn sách hai lần là đă thuộc ḷng.

Sau mười năm làm thầy giảng và ba năm thần học, ngày 15.3.1823, thầy Dũng được lănh chức linh mục (cùng với lớp thánh Ngân và Nghi), rồi được bổ nhiệm làm phó xứ Đoài, rồi lại giúp cha Thuyết ở Sơn Miêng. Cuối cùng, khi cha làm chánh xứ Kẻ Đầm th́ bị bắt. Suốt cuộc đời linh mục, cha Dũng sống nhiệm nhặt. Ngoài những ngày ăn chay theo luật của Giáo hội, cha c̣n giữ chay suốt mùa chay, và nhiều khi cả các ngày thứ Sáu, thứ Bảy quanh năm. Thường xuyên cha chỉ dùng những thức ăn đơn giản. Cha Dũng hết ḿnh với nhiệm vụ chủ chăn, chẳng khi nào thấy cha ngại ngùng việc ǵ. Cha có ḷng ưu ái đặc biệt với người nghèo. Có được của cải ǵ, cha chia sẽ cho họ hầu hết.

Khi lệnh bách hại của vua Minh Mạng trở nên gay gắt qua chiếu chỉ toàn quốc ngày 6.1.1833, cha phải ẩn náu tại nhà các bổn đạo, sau trốn lên Kẻ Roi và lập nhà xứ ở đó. Một hôm, cha dâng lễ vừa xong, th́ quân lính ập tới, cha liền cởi áo lễ và ngồi lẩn trong tín hữu. Lính bắt cha như một trong ba mươi giáo hữu hôm đó, v́ quan quân không biết cha là linh mục. Ông tổng Th́n bỏ ra sáu nén bạc, nhận cha là thân nhân đi dự lễ để chuộc về. Từ đây cha đổi tên là Lạc.

Lần thứ hai cha bị bắt khi đến Kẻ Sông xưng tội với cha Thi theo thói quen hằng tháng. Lư trưởng Pháp bắt được hai linh mục và mặc cả với giáo hữu phải chuộc với giá hai trăm quan. Các tín hữu gom góp được một trăm quan, nên viên lư trưởng chỉ thả cha Lạc. Thế nhưng ngay trên đường về, v́ gặp mưa gió, thuyền cha phải ghé vào bờ. Căn nhà cha định trú lại đang bị quân lính khám xét. Thế là cha bị bắt lần thứ ba và bị giải lên huyện B́nh Lục cùng với cha Thi.

Một lần nữa, giáo hữu cùng Đức cha Retord Liêu t́m cách chuộc hai cha về, nhưng lần này cha Lạc thấy ư Chúa đă định cho ḿnh. Ngài nhắn về với Đức cha câu chuyện Thánh Phêrô hai lần thoát khỏi ngục, đến lần thứ ba, Chúa Giêsu đă yêu cầu ở lại tử đạo tại Rôma, và cha xin các tín hữu đừng lo liệu tiền chuộc làm chi nữa.

Được Cảm T́nh Mọi Giới

Quan huyện B́nh Lục đối xử với hai vị linh mục một cách tử tế. Ông truyền dọn cho hai cha bằng mâm bát của ḿnh, bắt lư trưởng trả lại quần áo đă tịch thu và thanh minh rằng: “Phép triều đ́nh cấm đạo và giết các cụ, chứ không phải tôi. Tôi không có tội ǵ trong việc này”. Ba ngày sau, quan huyện đưa hai cha xuống thuyền chuyển về Hà Nội. Các tín hữu thương tiếc đi theo rất đông, hoặc bằng thuyền, hoặc đi bộ trên bờ. Quan lấy làm lạ hỏi: “Đạo trưởng có cái ǵ mà dân chúng thương tiếc quá vậy?”. Một phụ nữ đứng gần đó đáp lại: “Thưa quan, các cha dạy chúng tôi những điều hay lẽ phải, dạy chồng hiền lành, đừng cờ bạc rượu chè, dạy vợ sống thuận thảo với chồng theo như giáo lư trong đạo”. Hai vị linh mục khi thấy nhiều người khóc lóc tiễn đưa ḿnh, đă dừng lại an ủi và khích lệ họ sống đạo cho tốt đẹp.

Tại Hà Nội, sau mấy lần tra hỏi, và dọa nạt hai vị chứng nhân Đức Kitô không thành công, các quan làm án xin vua xử trảm.

Thời gian trong tù, hai cha chiếm được t́nh cảm của lính gác, được tôn trọng và đối xử tử tế. Khi nhận được quà tiếp tế, hai cha chia cho lính canh, chỉ giữ lại những thứ tối thiểu. Mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối, hai cha quỳ bên nhau cầu nguyện lâu giờ. Tuy các tín hữu xin được phép đưa cơm vào tù mỗi ngày, hai cha vẫn t́m cách hăm ḿnh dặn họ đừng mang thịt hay cá làm chi, các ngài vẫn tiếp tục giữ chay ngày thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy. Những ngày đó, hai cha ăn thật ít vừa đủ.

Lễ các Thánh (1.11.1839), linh mục Trân đưa Ḿnh Thánh vào ngục. Vừa thấy ngài, cha Lạc đă ra chào đón: “Xin chào bác, tôi đợi bác đă lâu v́ hết lương thực rồi”. Sau đó, cha cung kính rước lễ, và trao Ḿnh Thánh cho cha già Thi.

Cuối năm 1839, khi quân lính đến công bố lệnh xử án, hai cha vui vẻ đón nhận bản án như một phần thưởng trọng hậu. Trên đường đến pháp trường, hai cha yên lặng cầu nguyện. Lúc ra khỏi cổng thành, cha Lạc chắp tay lại, hát lớn tiếng mấy câu Latinh chúc tụng Chúa. Trước phút hành quyết, người lư h́nh đến nói với hai cha:

“Chúng tôi không biết các thầy tội ǵ, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên, xin các thầy đừng chấp”.

Cha Lạc tươi cười trả lời: “Quan đă truyền lệnh anh cứ thi hành”. Sau đó, hai cha xin ít phút để cầu nguyện lần chót, rồi nghiêng đầu cho lư h́nh chém.

Hai vị đă lănh phúc tử đạo ngày 21.12.1839 tại băi ngoài cửa Ô Cầu Giấy (Hà Nội), giáp đường lên tỉnh Sơn Tây. Thi hài của cha Lạc được đưa về an táng tại nhà bà Lư Quư gần đó.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho linh mục Anrê Trần an Dũng Lạc ngày 27.5.1900.

Nhớ đến Thánh Dũng Lạc, phải nhớ đến những vần thơ ngài tâm sự trong thư viết trong ngục cho cha Thực rằng:


“Lạc rầy đă rơ chốn quân quan
Bút chép thơ này gửi thở than
Ḷng nhớ bạn, nỗi c̣n vất vả
Dạ thương khách, chạy chữa yên hàn.
Đông qua tiết lại th́ xuân tới
Khổ trảm mai sau hưởng phúc an
Làm kẻ anh hùng chi quản khó
Nguyện xin cùng gặp chốn thiên đàng”. (1)

(1): Thơ trích trong Nguyễn văn Tư, Bốn mươi hai Á Thánh Tử Đạo, tr. 76.